Scholar Hub/Chủ đề/#xỉ thép/
Xỉ thép là chất thải sinh ra trong quá trình sản xuất và gia công thép. Đây là một hỗn hợp của các chất không cần thiết, chẳng hạn như kim loại nặng, cacbon, lư...
Xỉ thép là chất thải sinh ra trong quá trình sản xuất và gia công thép. Đây là một hỗn hợp của các chất không cần thiết, chẳng hạn như kim loại nặng, cacbon, lưu huỳnh, silic, photpho và các chất khác. Xỉ thép thường có dạng chất lỏng hoặc chất rắn, và có thể gây ô nhiễm môi trường nếu không được xử lý một cách đúng đắn. Tuy nhiên, xỉ thép cũng có thể được tái chế và sử dụng lại trong quá trình sản xuất thép hoặc sản xuất các vật liệu xây dựng khác.
Xỉ thép là một chất thải phát sinh trong quá trình sản xuất và gia công thép, đặc biệt là trong quá trình luyện kim và nấu thép. Nó là một sản phẩm phụ của quá trình sản xuất thép và không có giá trị thương mại cao.
Xỉ thép thường được chỉ định dưới dạng một chất lỏng nóng chảy có màu đen hoặc đỏ nâu. Nó chứa hỗn hợp cacbon, silic, lưu huỳnh, photpho và các kim loại nặng như chì, kẽm, thủy ngân và arsenic. Xỉ có thể còn chứa các chất độc và gây ô nhiễm môi trường như axit sulfuric và các chất gây ô nhiễm khác.
Vì tính chất phức tạp và ô nhiễm của xỉ thép, việc xử lý và xử lý xỉ được đưa ra để giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Quy trình xử lý xỉ bao gồm các bước như làm mát xỉ bằng nước, kết tủa và ly tâm cũng như xử lý bằng cách hòa tan xỉ trong dung dịch hoặc hỗn hợp khác. Sau đó, xỉ được tách ra và lọc để tái sử dụng nếu có thể.
Một trong những cách sử dụng lại xỉ thép là sử dụng nó làm nguyên liệu tái chế trong quá trình sản xuất thép. Xỉ có thể được sử dụng để thay thế một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu truyền thống như quặng sắt. Ngoài ra, xỉ cũng có thể được sử dụng trong ngành xây dựng làm vật liệu xây dựng như cát xỉ để sử dụng trong xây dựng đường và các công trình khác.
Tuy nhiên, việc xử lý và sử dụng lại xỉ thép vẫn đang gặp một số thách thức kỹ thuật và kinh tế do tính phức tạp của xỉ và sự đa dạng của thành phần hóa học. Các công nghệ xử lý và sử dụng lại xỉ thép đang được phát triển để tối ưu hóa quá trình và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.
Xỉ thép được tạo ra trong các nhà máy thép khi quặng sắt và các nguyên liệu khác được nấu chảy và sản xuất ra thép. Trong quá trình này, các chất tạp chất như cacbon, silic, mangan, lưu huỳnh và phospho trong nguyên liệu ban đầu tạo thành xỉ thép.
Xỉ thép có thể có dạng lỏng hoặc rắn, tùy thuộc vào quá trình sản xuất thép cụ thể. Xỉ lỏng (hay còn được gọi là xỉ nóng) có thể có nhiệt độ từ 1.300°C đến 1.500°C và được thu thập trong các hệ thống thoát nhiệt và bể xỉ trong quá trình nấu, luyện kim thép hoặc tạo ra thép nóng chảy.
Xỉ rắn (hay còn được gọi là xỉ lạnh) là kết quả của việc làm mát xỉ nóng và thường có dạng viên nhỏ hoặc mảnh nhỏ. Xỉ rắn thường được thu thập và xử lý bằng cách tái chế hoặc sử dụng lại trong các ứng dụng khác. Quá trình xử lý xỉ rắn bao gồm các bước như làm mát xỉ nóng, phân loại, nghiền và loại bỏ chất còn lại. Khi được xử lý đúng cách, xỉ thép có thể được sử dụng lại trong các ngành công nghiệp khác nhau.
Sử dụng lại xỉ thép đã trở thành một phần quan trọng trong công nghệ hàng đầu của ngành sản xuất thép. Xỉ thép được tái chế và sử dụng lại trong luyện kim để tạo ra thép mới. Xỉ cũng có thể được sử dụng như một nguyên liệu trong việc sản xuất vật liệu xây dựng, bê tông, đường, tráng men và các ứng dụng khác. Quá trình sử dụng lại xỉ thép giúp giảm tải cho nguồn tài nguyên thiên nhiên và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.
Tuy nhiên, việc xử lý và sử dụng lại xỉ thép vẫn đòi hỏi công nghệ và quy trình phức tạp. Thành phần hóa học và tính chất vật lý của xỉ thép có thể khác nhau tùy thuộc vào quy trình sản xuất và nguyên liệu ban đầu. Điều này đòi hỏi các phương pháp xử lý và tái chế xỉ phải được tùy chỉnh và tối ưu hóa để đảm bảo hiệu quả và an toàn cho môi trường.
Neuroprotective Effects of Necrostatin-1 Against Oxidative Stress–Induced Cell Damage: an Involvement of Cathepsin D Inhibition Neurotoxicity Research - Tập 37 Số 3 - Trang 525-542 - 2020
AbstractNecroptosis, a recently discovered form of non-apoptotic programmed cell death, can be implicated in many pathological conditions including neuronal cell death. Moreover, an inhibition of this process by necrostatin-1 (Nec-1) has been shown to be neuroprotective in in vitro and in vivo models of cerebral ischemia. However, the involvement of this type of cell death in oxidative stress–induced neuronal cell damage is less recognized. Therefore, we tested the effects of Nec-1, an inhibitor of necroptosis, in the model of hydrogen peroxide (H2O2)-induced cell damage in human neuroblastoma SH-SY5Y and murine hippocampal HT-22 cell lines. The data showed that Nec-1 (10–40 μM) attenuated the cell death induced by H2O2 in undifferentiated (UN-) and neuronal differentiated (RA-) SH-SY5Y cells with a higher efficacy in the former cell type. Moreover, Nec-1 partially reduced cell damage induced by 6-hydroxydopamine in UN- and RA-SH-SY5Y cells. The protective effect of Nec-1 was of similar magnitude as the effect of a caspase-3 inhibitor in both cell phenotypes and this effect were not potentiated after combined treatment. Furthermore, the non-specific apoptosis and necroptosis inhibitor curcumin augmented the beneficial effect of Nec-1 against H2O2-evoked cell damage albeit only in RA-SH-SY5Y cells. Next, it was found that the mechanisms of neuroprotective effect of Nec-1 against H2O2-induced cell damage in SH-SY5Y cells involved the inhibition of lysosomal protease, cathepsin D, but not caspase-3 or calpain activities. In HT-22 cells, Nec-1 was protective in two models of oxidative stress (H2O2 and glutamate) and that effect was blocked by a caspase inhibitor. Our data showed neuroprotective effects of the necroptosis inhibitor, Nec-1, against oxidative stress–induced cell damage and pointed to involvement of cathepsin D inhibition in the mechanism of its action. Moreover, a cell type–specific interplay between necroptosis and apoptosis has been demonstrated.
NGHIÊN CỨU KHẢO SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ CÁC ĐIỀU KIỆN ẢNH HƯỞNG XỈ THÉP HẤP PHỤ VÀ LOẠI BỎ ARSEN TRONG NƯỚC Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu này là tận dụng nguồn chất thải rắn trong môi trường là xỉ thép đưa vào hấp phụ và loại bỏ arsen trong nước. Việc nghiên cứu thực hiện các quy trình thực nghiệm theo các quy trình thực nghiệm ở các điều kiện ảnh hưởng đến tính năng xỉ thép hấp phụ và loại bỏ arsen trong nước ô nhiễm: nồng độ, kích cỡ, khối lượng hạt xỉ thép cần thiết, nồng độ ô nhiễm, nhiệt độ, các ion cộng sinh. Kết quả nghiên cứu cho thấy: nồng độ dung dịch ban đầu càng thấp cân bằng hấp phụ càng dễ đạt được, nồng độ dung dịch ban đầu càng cao thì phải mất thời gian dài mới đạt cân bằng hấp phụ; kích thước hạt xỉ thép càng nhỏ cân bằng hấp phụ càng dễ đạt đến, kích thước hạt lớn thì thời gian đạt cân bằng hấp phụ sẽ kéo dài; lượng hạt xỉ thép gia tăng càng cao thì hấp phụ lượng chất ô nhiễm càng lớn, hiệu quả loại bỏ càng nhiều; nồng độ pH ban đầu ảnh hưởng đến tính năng xỉ thép hấp phụ As (III); ảnh hưởng của nhiệt độ đến tính năng xỉ thép hấp phụ As (III) không rõ ràng; các ion khác nhau (NO3-, Cl-, F-, SO42- và PO43-) can thiệp đến tính năng xỉ thép hấp phụ As (III) trong dung dịch. Như vậy, lựa chọn xỉ thép làm vật liệu hấp phụ và loại bỏ arsen trong nước là phương thức tối ưu, mang lại hiệu quả kinh tế, bảo vệ môi trường và tính ứng dụng cao có thể đưa vào áp dụng thực tiễn.
#Steel slag #adsorption #arsenic #solid waste.
NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ BÀN RUNG 2 PHƯƠNG CỘNG HƯỞNG ĐỂ CHẾ TẠO KÊNH MÁNG XI MĂNG LƯỚI THÉP Kết cấu xi măng lưới thép ( XMLT) dạng mỏng đã và đang được sử dụng trong các công trình xây dựng, thủy lợi, giao thông. Trong công nghệ chế tạo bằng phương pháp rung hầu hết chúng được sản xuất bằng máy rung theo một phương thẳng đứng. Trong bài viết, các tác giả lần đầu tiên sử dụng máy rung theo 2 phương để chế tạo kênh máng XMLT. Lực ma sát của hỗn hợp bê tông được tuyến tính hóa khi tham gia chuyển động theo 2 phương để từ đó các thông số dao động chủ yếu của hỗn hợp như vận tốc, gia tốc chuyển động được thiết lập. Những thông số được khảo sát này là cơ sở để nghiên cứu và thiết kế máy rung 2 phương cộng hưởng để chế tạo kết cấu XMLT vỏ mỏng nói chung và kênh máng XMLT nói riêng.
Nghiên cứu các tác động môi trường khi sử dụng xỉ thép làm vật liệu xây dựng, vật liệu san lấp Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu về các quy định, tiêu chuẩn liên quan đến vấn đề môi trường khi sử dụng xỉ thép trên thế giới và tại Việt Nam. Theo đó, các mẫu xỉ thép được xác định thành phần nguy hại, hoạt độ phóng xạ tự nhiên, và nồng độ các kim loại nặng có khả năng rò rỉ trong nước chiết trong phạm vi phòng thí nghiệm. Kết quả thử nghiệm cho thấy xỉ thép không thuộc nhóm chất thải nguy hại theoQCVN 07: 2009/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ngưỡng chất thải nguy hại. Bên cạnh đó, chỉ số hoạt độ phóng xạ an toàn (I) của các mẫu xỉ thép được sử dụng trong nghiên cứu cũng hoàn toàn đáp ứng yêu cầu đề ra theo cả hai tiêu chuẩn Việt Nam “TCXDVN 397:2007- Hoạt độ phóng xạ tự nhiên của vật liệu xây dựng- Mức an toàn trong sử dụng và phương pháp thử” và tiêu chuẩn Phần Lan “STUK ST 12.2/2010 - The Radioactivity of Building materials and ash”. Mặc dù trong xỉ thép có tồn tại một lượng nhỏ các kim loại nặng nhưng nguy cơ rò rỉ các kim loại này khi sử dụng xỉ thép trong thực tế là rất thấp. Để đưa ra được kết luận toàn diện về ảnh hưởng môi trường trong quá trình sử dụng xỉ thép, cần phải thực hiện thêm các thử nghiệm môi trường trong điều kiện thực tế.Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu trong phòng thí nghiệm bước đầu đã chứng minh rằng xỉ thép có tiềm năng lớn làm vật liệu xây dựng, vật liệu san lấp với khối lượng lớn mà không có nguy hại tới môi trường xung quanh khu vực sử dụng.
#Tác động môi trường #Vật liệu xây dựng #Vật liệu san lấp #Hoạt tính phóng xạ tự nhiên #Thử nghiệm lắc chiết #Rò rỉ kim loại
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA XỈ LÒ CAO NGHIỀN MỊN ĐẾN TÍNH CHẤT CỦA HỖN HỢP BÊ TÔNG TỰ LÈN CHẤT LƯỢNG CAO Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng - - 2024
Bài báo trình bày ảnh hưởng của xỉ lò cao nghiền mịn (XLCNM) đến tính chất của hỗn hợp bê tông tự lèn chất lượng cao (BTTLCLC). Hàm lượng xỉ lò cao được sử dụng từ 10-50 % thay thế lượng dùng xi măng trong BTTLCLC có sử dụng 7% silica fume. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng sử dụng XLCNM kết hợp với silica fume có thể chế tạo hỗn hợp BTTLCLC có khả năng tự lèn tốt. Tăng hàm lượng XLCNM làm giảm lượng bão hòa phụ gia siêu dẻo của hỗn hợp bê tông trong khi vẫn đảm bảo tính tự lèn tốt theo yêu cầu. Ở tỷ lệ N/CKD =0,26; 30-40 % XLCNM cho hỗn hợp BTTLCLC có độ nhớt thấp nhất, khả năng điền đầy, khả năng chảy qua cốt thép và khả năng chống phân tầng tốt nhất.
#Xỉ lò cao nghiền mịn #Bê tông tự lèn chất lượng cao #Lượng bão hòa phụ gia siêu dẻo #Độ nhớt #Khả năng điền đầy #Khả năng chảy qua cốt thép và khả năng chống phân tầng
Khả năng ứng dụng xỉ thép trong bê tông tự đầm cho kết cấu chống giữ công trình ngầm Xỉ thép là sản phẩm phế thải ở các nhà máy luyện thép. Xỉ thép thường có dạng hạt, mạt nên dễ dàng trong quá trình trộn bê tông, có tỷ trọng lớn nên dễ chìm xuống dưới, đi qua các khoảng hở giữa cốt thép nên có khả năng rất tốt ứng dụng trong bê tông tự đầm (SCC). Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng độ bền nén của bê tông xỉ thép tự đầm thu được là (29,30÷35,97) MPa và (30,35÷37,37) MPa tương ứng với mác bê tông M300 và M400. Mô đun đàn hồi với bê tông xỉ thép tự đầm M300 và M400 là 33,38 MPa và 38,58 MPa ở tuổi 28 ngày. Độ bền kéo uốn của dầm bê tông xỉ thép tự đầm kích thước BxHxL = 150 x 300 x 600 mm là 42,37 MPa với mẫu M300 và 46,9 MPa mẫu M400. Độ mài mòn bề mặt mẫu 0,34 và 0,30 g/cm3 với mẫu bê tông xỉ thép có mác M300 và M400. Các giá trị trên đều tương đương và cao hơn với bê tông thông thường. Khả năng công tác của bê tông xỉ thép tự đầm cũng cao hơn bê tông thông thường. Do đó bê tông xỉ thép tự đầm hoàn toàn có khả năng ứng dụng cho kết cấu chống giữ các công trình ngầm, đặc biệt là các công trình ngầm có tuổi thọ lớn như các đường hầm giao thông, các công trình ngầm có yêu cầu cách nước, chống thấm để tận dụng các sản phẩm phế thải, cải thiện môi trường trong các nhà máy luyện thép tại Việt Nam nói chung và của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nói riêng.
#Bê tông đúc sẵn #Bê tông tự đầm (SCC) #Đường hầm #Vỏ chống #Xỉ thép
KẾT QUẢ BƠM XI MĂNG QUA CUỐNG ĐIỀU TRỊ LÚN THÂN ĐỐT SỐNG NGỰC, THẮT LƯNG DO LOÃNG XƯƠNG TẠI BỆNH VIỆN THANH NHÀN Mục tiêu: Đánh giá kết quả bơm xi măng qua cuống điều trị lún thân đốt sống ngực, thắt lưng do loãng xương tại Bệnh viện Thanh Nhàn. Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô tả trên 71 bệnh nhân. Kết quả: Biến chứng tràn xi măng trong mổ gồm có tỷ lệ bệnh nhân có tràn xi măng qua bờ trước thân đốt sống, có tràn vào đĩa đệm lần lượt là 16,9% và 11,3%. Tỷ lệ ngấm xi măng trên 2/3 đốt là 78,9%. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001) giữa điểm VAS trung bình của bệnh nhân tại các thời điểm theo dõi. Tỷ lệ bệnh nhân đạt kết quả rất tốt và tốt sau bơm xi măng qua da lần lượt là 63,4% và 29,6%. Kết luận: Bơm xi măng đốt sống qua da là một phương pháp ít xâm lấn, hiệu quả điều trị cao với tỷ lệ biến chứng thấp và thường không để lại di chứng, giảm đau tốt và phục hồi vận động nhanh chóng.
#Lún thân đốt sống #loãng xương #bơm xi măng
Nghiên cứu sử dụng xỉ thép làm vật liệu san lấp, đắp nền trong xây dựng Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu sử dụng xỉ thép từ các loại lò luyện thép (lò chuyển BOF, lò hồ quang điện EAF, lò điện cảm ứng IF) ở Việt Nam để làm vật liệu san lấp, đắp nền trong xây dựng. Các mẫu xỉ thép đã được xác định thành phần nguy hại, đặc tính phóng xạ, thành phần hóa, thành phần khoáng và tính chất cơ lý. Kết quả nghiên cứu cho thấy các mẫu xỉ thép không phải là chất thải nguy hại theo quy định trong QCVN 07:2009/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ngưỡng chất thải nguy hại. Bên cạnh đó, kết quả tính toán chỉ số hoạt độ phóng xạ an toàn của các mẫu xỉ được thử nghiệm đều đạt yêu cầu làm vật liệu san lấp theo TCXDVN 397:2007 - Hoạt độ phóng xạ tự nhiên của VLXD - Mức an toàn và phương pháp thử. Sau khi gia công xử lý thành phần hạt, tách từ và ổn định thể tích, xỉ thép có thể được sử dụng làm vật liệu san lấp, đắp nền với khối lượng lớn trong xây dựng mà không ảnh hưởng đến môi trường xung quanh khu vực sử dụng.
#Xỉ thép #Vật liệu san lấp #Hoạt độ phóng xạ #Thành phần nguy hại #QCVN07:2009/BTNMT